Album ảnh

Tòa trọng tài quốc tế và những quan điểm về Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958

Giáo sư Luật Erik Franckx, thành viên của Tòa trọng tài thường trực, cho rằng công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đề cập đến việc mở rộng lãnh hải của Trung Quốc chứ không hề nhắc đến Hoàng Sa hay Trường Sa.

Thành viên Tòa trọng tài thường trực nói về công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Giáo sư  Erik Franckx, Đại học Tự do, Bỉ, thành viên Tòa trọng tài thường trực (trái) và Giáo sư Jerome Cohen, Chủ tịch Viện Luật pháp Hoa Kỳ – Châu Á, ĐH Luật New York, trao đổi vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa theo những khía cạnh pháp lý bên lề Hội thảo “Hoàng Sa-Trường Sa: Sự thật lịch sử” ở Đà Nẵng.

Trung Quốc cho rằng nước này có chủ quyền không thể tranh cãi đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và một trong những lý do thường được Trung Quốc viện dẫn để biện hộ cho yêu sách chủ quyền của mình là ngày 14/9/1958, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khi đó Phạm Văn Đồng đã gửi công hàm cho Thủ tướng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Tây Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam) và Nam Sa (tức Trường Sa của Việt Nam).

Tại triển lãm quốc tế “Hoàng Sa-Trường Sa: Phần lãnh thổ không thể tách rời của Việt Nam” tại Bảo tàng Đà Nẵng ngày 21/6 vừa qua, Giáo sư Luật Erik Franckx, Đại học Tự do Brussel, Bỉ và là thành viên của Tòa trọng tài thường trực (PCA) cho biết: “Cần phải đọc công hàm này rất kỹ, nhất là tuyên bố của ngài Phạm Văn Đồng, bởi vì nó chỉ nhắc đến việc mở rộng lãnh hải.”

Ông cho biết vào thời điểm công hàm được đưa ra (năm 1958), nhiều nước ra tuyên bố mở rộng lãnh hải 12 hải lý và ông cho rằng công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng “ủng hộ cho việc mở rộng đó của Trung Quốc”. Tuy nhiên ông nhận định: “Điều quan trọng là Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập cụ thể đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, nên không thể suy diễn Việt Nam xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa hay Trường Sa.

Nói về giá trị pháp lý của các bản đồ, Giáo sư Franckx cho biết, rất khó có thể chứng minh chủ quyền lãnh thổ chỉ bằng bản đồ vì vậy bản đồ cần phải đi kèm với những tài liệu, thỏa thuận có giá trị pháp lý.

“Bản thân bản đồ chỉ là bằng chứng đủ, hỗ trợ thêm cho các thỏa thuận, tài liệu được đưa ra. Vì lý do đó tôi cho rằng việc kết hợp các thỏa thuận, tài liệu với bản đồ là rất quan trọng”, Giáo sư Franckx cho biết.

“Chạy đua kiện” tốt hơn “chạy đua vũ khí”

Nói về khả năng Việt Nam kiện Trung Quốc, Giáo sư Franckx cho biết Việt Nam có thể chọn các cơ chế khác nhau theo Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (UNCLOS), như phân định về vùng biển. Ông cũng cho rằng Việt Nam có thể chọn vấn đề như Philippines, tức yêu cầu Trung Quốc định nghĩa “đường 9 đoạn” là gì.

Trong khi đó, Giáo sư Jerome Cohen, Chủ tịch Viện Luật pháp Hoa Kỳ – Châu Á, ĐH Luật New York, cũng cho rằng nếu kiện, Việt Nam nên kiện Trung Quốc theo các cơ chế giải quyết tranh chấp của UNCLOS. Theo ông khả năng Việt Nam kiện Trung Quốc ra Tòa Công lý quốc tế là rất khó bởi Trung Quốc có quyền từ chối tham gia, theo quy định của tòa.

“Câu hỏi ai sở hữu quần đảo Hoàng Sa không phải là vấn đề được đề cập trong Công ước Luật biển. Mà đây là vấn đề tranh chấp lãnh thổ. Chính phủ Việt Nam có thể đưa vụ kiện đối với vấn đề Hoàng Sa lên Tòa án công lý quốc tế (ICJ). Nhưng cơ hội để ICJ đưa ra phán quyết đối với vụ kiện là rất nhỏ bởi Trung Quốc theo quy định không buộc phải giải quyết các tranh chấp về lãnh thổ trước ICJ.”

“Nhưng tôi cho rằng Trung Quốc phải có trách nhiệm giải quyết vụ kiện đối với mình theo Hệ thống tòa án của Công ước Luật biển. Và chắc chắn là Trung Quốc phải có trách nhiệm tuân thủ bất kỳ quyết định nào từ tòa án trọng tài, như trong vụ kiện của Philippines”, Giáo sư Cohen cho hay.

Giáo sư Cohen cũng gợi ý châu Á có thể thành lập một tòa riêng để giải quyết những tranh chấp trong khu vực.

Giáo sư Cohen cho rằng Việt Nam nên kiện ngay Trung Quốc, dù kết quả vụ kiện ra sao, vì đây là một quá trình để nêu quan điểm, thuyết phục ý kiến của công luận và đây là một cách văn minh để giải quyết tranh chấp, trong khi vẫn có thể thúc đẩy được hợp tác. Ông cho rằng dù châu Á có “chạy đua các vụ kiện vẫn còn tốt hơn là chạy đua vũ khí”.

6 comments on “Tòa trọng tài quốc tế và những quan điểm về Công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958

  1. “Giáo sư Luật Erik Franckx, thành viên của Tòa trọng tài thường trực, cho rằng công hàm năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ đề cập đến việc mở rộng lãnh hải của Trung Quốc chứ không hề nhắc đến Hoàng Sa hay Trường Sa.”, với những khẳng định như thế này, chúng ta thêm một lần nữa khẳng định sự đúng đắn và cấp thiết trong công hàm của thủ tướng Phạm Văn Đồng, chúng ta không nên tin vào những lời lẽ bịa đặt chống phá nhà nước ta.

  2. rõ ràng đây là một sự thật không thể phủ nhận, mọi quyết định, chính sách mà thủ tướng Phạm Văn Đồng đưa ra đếu xuất phát từ lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia. Điều mà chúng ta không thể phủ nhận, không bao giờ có chuyện bán nước như các thế lực thù địch, chống phá nhà nước ta vẫn xuyên tạ.

  3. Xuyên tạc công hàm năm 1958 của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng là chiêu trò mà bọn phản động và Trung Quốc gần đây rất hay sử dụng để tuyên truyền lệch lạc về Việt Nam. Chắc chắn rằng không bao giờ có chuyện cố thủ tướng Phạm Văn Đồng lại công nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của Trung Quốc. Kiên quyết đấu tranh với những sự xuyên tạc của các thế lực thù địch và Trung Quốc

  4. vào thời điểm công hàm được đưa ra (năm 1958), nhiều nước ra tuyên bố mở rộng lãnh hải 12 hải lý và ông cho rằng công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng “ủng hộ cho việc mở rộng đó của Trung Quốc”. Tuy nhiên ông nhận định: “Điều quan trọng là Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập cụ thể đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, nên không thể suy diễn Việt Nam xác nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa hay Trường Sa.Đây là một bằng chứng không thể chối cãi, là một điều phủ nhận đanh thép nhất cho những hành động của tủng quốc, của những hành động hết sức phi lý.

  5. Dưới góc độ pháp luật quốc tế, các học giả cho rằng, việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam là hành vi vi phạm Hiến chương Liên Hợp quốc, Công ước của Liên Hợp quốc về luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 và Thỏa thuận về nguyên tắc 6 điểm giải quyết tranh chấp trên Biển giữa Việt Nam và Trung Quốc năm 2011. Đồng thời, hành vi này đã xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã được quy định tại Điều 56,77 và 81 Công ước 1982

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Twitter picture

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Twitter Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s