
This gallery contains 2 photos.
Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Nội dung về đối ngoại của văn kiện này … Tiếp tục đọc
This gallery contains 2 photos.
Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Nội dung về đối ngoại của văn kiện này … Tiếp tục đọc
Vi phạm kỷ luật một cách nghiệm trọng- một cách gọi tội danh tham nhũng là một trong những hành vi đã có từ rất lâu và mặc dù, tham ô tham nhũng đã được nghiên cứu, đánh giá và giải quyết không chỉ ở một cấp độ quốc gia mà còn ở cấp độ quốc tế nhưng cho đến bây giờ việc ngăn ngừa, phòng và chống hành vi vi phạm đó vẫn còn là những bài toán chưa có lời giải cuối cùng. Gần đây, vấn đề tham nhũng trong các doanh nghiệp công ích nhà nước của Việt Nam lại đang xôn xao trong dư luận, gây nhức nhối trong lòng dân khiến chúng ta không ngừng hỏi: Tại sao vẫn còn tham nhũng?
Tham nhũng là gì? Theo tổ chức Minh bạch Quốc tế, tham nhũng là lợi dụng quyền hành để gây phiền hà, khó khăn và lấy của dân, là một hệ quả tất yếu của nền kinh tế kém phát triển, quản lý kinh tế xã hội lỏng lẻo, yếu kém tạo ra nhiều sơ sở cho các hành vi tiêu cực. Tham nhũng và tham ô thường xuất hiện nhiều hơn từ các nước có nền kinh tế kém phát triển hoặc có mức thu nhập bình quân/đầu người thấp. Tại các nước này con người thường có ý đồ nắm các cương vị cao trong hàng ngũ lãnh đạo để tham nhũng. Vậy phải chăng tham nhũng là điều không thể tránh khỏi đối với Việt Nam khi vừa mới bước sang ngưỡng cửa của một quốc gia có thu nhập ở mức trung bình so với thế giới? Hơn thế nữa, xã hội biến đổi liên tục kèm theo sự thay đổi về các chuẩn mực đạo đức. Nền kinh tế biến đổi ắt sinh ra tham nhũng mà thôi! Vậy tham nhũng là một hiện tượng phổ biến, một xu hướng của xã hội? Hay là những hành vi mang tính chủ quan cá nhân của những người có chức, có quyền? Bởi chỉ có những người như thế thì mới có thể thực hiện những hành vi này.
Và bởi vì như thế, khi hành vi tham nhũng xảy ra nó sẽ gây ra những hậu quả rất nghiêm trọng. Tham nhũng không chỉ là những hành vi thể hiện sự suy đồi, biến chất của đạo đức con người, đặc biệt của những người có chức có quyền thường đã từng được nhân dân tin yêu. Tham nhũng còn làm thất thoát một tài sản khổng lồ trong ngân sách của nhà nước mà ngân sách nhà nước được hình thành từ sự đóng góp của nhân dân. Cho nên khi có hành vi tham nhũng, sẽ làm mất lòng tin của nhân dân và gây bức xúc trong dân. Hàng năm những con số thống kê về mức độ tham nhũng của các quốc gia sẽ được tổ chức Minh bạch quốc tế đánh giá và xếp hạng. Liệu rằng có nhà đầu tư nào, nhà kinh doanh nào muốn bỏ tiền của của mình trên một đất nước có mức độ tham nhũng cao? Liệu có quốc gia nào muốn xây dựng quan hệ ngoại giao với một quốc gia luôn có hiện tượng tham nhũng? Và như thế thì đất nước không thể phát triển được nếu hiện tượng tham nhũng xảy ra.
Vì “tham nhũng không phải là một thảm họa tự nhiên, đó là những khoản ăn cắp tài sản xã hội được tính toán từ những kẻ tham lam”(1). Do vậy, sẽ có cách để giải quyết tham nhũng.
Công tác phòng, chống tham nhũng luôn là vấn đề “nóng” dành được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Chúng ta đã xây dựng rất nhiều kênh để thực hiện việc phòng, chống tham nhũng như: xây dựng và ban hành luật phòng chống tham nhũng, nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động rất quyết liệt. Nhưng thực sự để tham nhũng không còn rơi vào tình trạng bế tắc như hiện nay nữa thì “Nâng cao nhận thức, trách nhiệm và xây dựng thái độ, ý thức tự giác cho cán bộ, công chức, học sinh, sinh viên trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, đồng thời phát huy vai trò của xã hội, của các cơ quan nhà nước, qua đó tạo ra phong trào sâu rộng đấu tranh phòng chống tham nhũng, từng bước hình thành văn hóa chống tham nhũng”. Và hơn thế nữa, khi phát hiện hành vi tham nhũng xảy ra ở bất cứ nơi đâu, bất cứ cấp độ nào, chúng ta cần có những biện pháp trừng phạt nghiêm minh để “những ai đó” không muốn, không dám và không thể thực hiện hành vi vi phạm này nữa.
Ms.Nanu
Lễ hội cà phê tại Đắc Lắc – một trong những hoạt động quảng bá thương hiệu cà phê Việt Nam
(Ảnh: Quang Trung)
Vì một Asean ổn định và thịnh vượng
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel
Bộ trưởng ngoại giao Trung Quốc Vương Nghị đến thăm Việt Nam
Nguồn Tiếng nói thế hệ trẻ
Hòa trong không khí vui tươi, phấn khởi của những ngày mùa thu lịch sử, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ra sức học tập, thi đua chào mừng ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ( 2/9/1945-2/9/2013). Trong giờ phút thiêng liêng lịch sử của 68 năm về trước, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam). Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chính quyền nhà nước thuộc về tay nhân dân. Đây là một bước ngoặt lịch sử quan trọng, phản ánh sự tất yếu, khách quan phù hợp với yêu cầu bức thiết của lịch sử, phù hợp với ý chí, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân.
Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 đã mở ra cho toàn thể dân tộc Việt Nam một kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập tự do, kỷ nguyên nhân dân làm chủ đất nước. Đã lâu lắm rồi, nhân dân ta mới có những ngày tháng “độc lâp – tự do – hạnh phúc”, được làm chủ vận mệnh đất nước. Điều đó là nhờ vào sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. 68 năm đã trôi xa, nhưng những ngày tháng 9 lịch sử năm ấy vẫn còn nguyên vẹn trong trái tim dân tộc Việt Nam. Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Việt Nam có truyền thống anh hùng, bất khuất, tôi cảm thấy hạnh phúc khi mình là người con của đất nước Việt Nam, càng hạnh phúc và tự hào hơn khi trong cơ thể mình đang chảy dòng máu của Dân tộc Việt. Lúc còn ấu thơ, tôi vẫn thường nghe Bà kể về những ngày tháng đấu tranh vì độc lập dân tộc của ông cha. Trong trí tưởng tượng non nớt của tôi lúc ấy chỉ biết có rất nhiều máu và nước mắt đã đổ xuống cho dân tộc. Một đứa trẻ như tôi lúc ấy làm sao hiểu nỗi những khổ đau, mất mát mà dân tộc ta đã phải chịu đựng. Ánh mắt tròn xoe của tôi nhìn vào khuôn mặt khắc khổ của Bà, tôi hỏi: “Tại sao phải chiến tranh hả Bà?”. Bà nhìn tôi bằng ánh mắt trìu mến, Bà nói: “Vì độc lập, tự do, vì một cuộc sống không còn sự áp bức, bóc lột của quân xâm lược, chúng ta phải cầm súng chiến đấu, cháu à”. Thì ra là thế! Bà tôi nói không sai, chỉ có độc lập tự do thì mới có cuộc sống hạnh phúc, ấm no. Khi lớn lên, chân lý đó càng thấm đượm vào tư tưởng của tôi. Chiến tranh đã lùi xa, tôi và những bạn trẻ trên đất nước Việt Nam chỉ biết chiến tranh qua sách vở, qua những lời ru, tiếng hát của các bà các mẹ. Nhưng sâu thẳm trong trái tim chúng tôi đó là tình yêu quê hương đất nước tha thiết, niềm tin sâu sắc vào Đảng. Đảng đã cho chúng tôi cuộc sống tốt đẹp hôm nay, cho chúng tôi hiểu về tinh thần cách mạng cao cả, chân chính là gì, rèn luyện chúng tôi vượt qua khó khăn thử thách, chống lại bọn phản cách mạng, bọn bán nước cầu vinh.
Một mùa xuân mới lại về trên quê hương Việt Nam, đó là mùa của chiến thắng, mùa của độc lập tự do được gieo mầm trên chính mảnh đất anh hùng này. Ngày 2/9/1945, cả thế giới phải ngước nhìn dân tộc Việt Nam, từ một dân tộc bị hai tầng áp bức, bóc lột đã kiên cường đập tan xiềng xích của kẻ thù, rủ bùn đứng dậy và dõng dạc tuyên bố rằng: “ Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Sự ra đời của nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không chỉ có sức ảnh hưởng to lớn đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà còn là nguồn cổ vũ to lớn cho các dân tộc bị áp bức, bóc lột đứng lên tự giải phóng dân tộc.
Thắng lợi đó là nhờ vào sự lãnh đạo tài giỏi của Đảng, nhờ vào sự đoàn kết mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. Điều quan trọng hơn đó chính là nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, được xây dựng, vun đắp trong đấu tranh cách mạng. Ngoài ra, sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng nhân dân. “Nhân dân là của Đảng, Đảng là của Nhân dân” chân lý đó mãi mãi trường tồn cùng thời gian. Cho dù các thế lực thù địch có điên cuồng chống phá như thế nào đi chăng nữa thì Đảng và quần chúng nhân dân vẫn là một mà thôi. Nhìn lại chặng đường 68 năm đã đi qua, từ khi nhà nước thuộc về nhân dân đầu tiên ra đời ( nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa), nước ta đã có những bước phát triển đột phá quan trọng, nền kinh tế phát triển ổn định, đời sống nhân dân ngày càng sung túc hơn. Từ một nước lúc mới thành lập chỉ có khoảng 1,2 triệu đồng trong kho bạc, nay đã phát triển cao, tổng GDP năm 2011 của cả nước ước khoảng 119 tỷ USD và GDP đầu người đạt 1.300 USD/người/năm. Những số liệu này chứng tỏ, đất nước ta đang trên đà phát triển, vị thế đất nước được nâng cao trên trường Quốc tế.
Trong không khí sục sôi, phấn khởi của những ngày Quốc khánh nước Cộng hòa Xã hôi Chủ nghĩa Việt Nam, cả nước hướng về thủ đô Hà Nội, nơi của 68 năm về trước đã từng diễn ra thời khắc lịch sử của đất nước. Hàng triệu con tim đập chung một nhip đập, hòa trong bài hát “Tiến quân ca” để kỉ niệm những ngày tháng hào hùng đó. Chúng tôi, những thế hệ tương lai của đất nước mãi mãi khắc trong tim tình yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc và xin hứa sẽ ra sức học tập và làm theo tấm gương, đạo đức Hồ Chí Minh để xứng đáng là thế hệ tương lai của đất nước.
Nguyễn Anh
Gần đây có nhiều quan điểm phản ánh báo chí Việt Nam đang “hôn mê và hổ thẹn từ tiềm thức đến vô thức”. Vậy quan điểm đúng đắn là như thế nào? Và giải quyết gia sao? Tôi có những quan điểm như sau.
– Nước ta với quy mô gần hơn 700 tờ báo lớn nhỏ vậy sự quản lý và quy hoạch và quản lý là điều quan trọng, và hơn thế nữa là bảo vệ nó trước những tư tưởng xấu là điều quan trọng. Vì nó là tiếng nói của Quốc gia. Mục đích của báo chí là đúng sự thật cập nhật, thực tiễn và giúp ích cho đời sống nhân dân. Sự quản lý lỏng lẻo của các tờ báo là quan trọng vì khi những nhà viết báo chưa nhận thức được tầm quan trọng của thông tin mình đăng có thể gây ảnh hưởng đến một cá nhân tổ chức nào đó, vậy nên nếu không quản lý việc đăng của các tờ bào vô tình đã làm hại các nhà viết báo và cũng chính tờ báo đó, một phần khác nếu đăng bừa bãi nó sẽ là cơ hội tốt cho các phẩn tử quá khích trọc ngoáy, bôi nhọ nền báo chí trong nước, chúng còn có thể tiếp tay, cung cấp thông tin cho nước ngoài làm hại đến chính sách của Đảng, và vi phạm quyền và lợi ích của nhân dân. Nhiều những vấn đề nóng vừa qua như “Đoàn Văn Vươn”, “báo Thanh Niên suýt bị khởi tố vì mạo phạm Ngân hàng nhà nước qua bài Rửa vàng”… những vấn đề nóng đã bị các đối tượng xấu xuyên tạc, lợi dụng nó để bôi nhọ chính quyền, và lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước.
– Hiện nay nhiều tờ báo thường hay đưa những vấn đề như giật gân, cướp, hiếp dâm… nhưng vấn đề đó nóng và cần có những bộ óc sang suốt để chọn lọc thông tin, loại bỏ những tin tức không tốt, tiếp thu kinh nghiệm, giáo dục quản lý con cái chứ không phải là phê phán nó. Xã hội rất nhiều tệ nạn, điều quan trọng nhận là nhận thức của người dân cần suy nghĩ và đánh giá vấn đề đó một cách khách quan, từ đó rút ra những bài học.
– Vấn đề đất đai là vấn đề nhạy cảm và không phải bất cứ vấn đề nào cũng đưa lên báo. Nó cần được giải quyết ổn thỏa để chấp hành theo chính sách của Đảng và Nhà Nước. Nếu đưa lên thì sẽ làm rạn nứt tình đoàn kết của Đảng, Nhà Nước và Nhân dân.
– Những trang mạng như: basam, Bauxite Vietnam, Quechoa, Chuacuuthe… luôn muốn nganh hàng như các tờ báo khác, nhưng những thông tin mà các blogst này đăng tải đều là những thông tin khoét sâu vào mẫu thuẫn của quần chúng nhân dân với chính quyền, mà nó không được tháo gỡ, đề ra phương pháp giải quyết. Lúc nào cũng nêu cao khẩu hiệu đa nguyên đa đảng, ủng hộ biểu tình… Những blogger này đều không công khai, thậm chí chúng còn không được một văn bản pháp lý nào công nhận thì lấy đâu mà đòi chuyên nghiệp hóa báo chí, đội ngũ cộng tác viên tăng trưởng, lấy đâu ra mà đòi quyền lợi được như các tờ báo có uy tín trong nước. Những tờ báo trong nước đều được Nhà Nước hỗ trợ tạo điều kiện, còn các blog này nguồn vốn chủ yếu từ nước ngoài, cộng tác viên là các phần tử cơ hội chính trị, chống đối, thù hằn giai cấp, thậm chí là sự chỉ đạo của nước ngoài.
– Hơn thế nữa báo chí phải tuân theo luật báo chí, đảm quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân, phù hợp với lợi ích của chủ nghĩa xã hội và của nhân dân, Để phát huy vai trò của báo chí trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc theo đường lối đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam, Căn cứ vào Điều 4, Điều 67 và Điều 83 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Một số phương pháp, hướng đi, mục tiêu cho báo chí trong nước.(trích lời nói của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng)
Một là, báo chí nước ta cần phát huy truyền thống tốt đẹp của mình, ra sức khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, tiếp tục tuyên truyền có hiệu quả việc thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, Nghị quyết của các Hội nghị Trung ương, Nghị quyết của Bộ Chính trị và phản ánh kịp thời việc học tập, nghiên cứu, triển khai ở các cấp, các ngành, địa phương nhằm tạo sự thống nhất, đồng thuận về chính trị, tư tưởng trong toàn Đảng và toàn xã hội. Đổi mới công tác tuyên truyền và nâng cao hiệu quả việc tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Tuyên truyền, cổ vũ, động viên mọi người dân và doanh nghiệp trong cả nước thực hiện có kết quả các Nghị quyết của Quốc hội và các chính sách, pháp luật, giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, cùng nhau nỗ lực vượt qua khó khăn thách thức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước ta.
Tuyên truyền, nhân rộng các phong trào thi đua yêu nước, các tập thể và cá nhân điển hình tiên tiến, những gương người tốt, việc tốt; quảng bá hình ảnh tốt đẹp của đất nước và con người Việt Nam; tăng cường hữu nghị và hợp tác cùng có lợi, cùng phát triển với các nước.
Hai là, báo chí cần thực hiện tốt hơn nữa, chính xác hơn nữa việc phát hiện và phê phán mạnh mẽ tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, các tiêu cực và tệ nạn xã hội; góp phần tích cực ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống. Báo chí của chúng ta phải luôn là một lực lượng nòng cốt, quan trọng trong đấu tranh phản bác các quan điểm, các thông tin sai trái, vu khống, xuyên tạc tình hình của đất nước; cũng như những thông tin gây phân tâm, làm phức tạp tình hình và không có lợi cho đất nước.
Ba là, các cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp, các Bộ, Ban ngành và các cơ quan Trung ương phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động báo chăm lo xây dựng đội ngũ những người làm báo “vừa hồng, vừa chuyên”; thực hiện nghiêm túc quy định về phát ngôn, cung cấp thông tin chính xác, kịp thời cho báo chí; xử lý đúng pháp luật các việc làm sai trái trong hoạt động báo chí. Thực hiện tốt Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ (số 919/CT-TTg 19/6/2010) về việc Tiếp tục nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước đối với hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam.
Bốn là, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, thời cơ thuận lợi và thách thức khó khăn đều lớn, đan xen nhau, đòi hỏi những người làm báo của chúng ta phải luôn tu dưỡng, rèn luyện để không chỉ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, nhanh nhạy tiếp cận với thông tin mới, công nghệ làm báo mới mà còn phải có phẩm chất tốt đẹp, bản lĩnh chính trị vững vàng, nhạy cảm và tỉnh táo trong xử lý thông tin và đưa thông tin. Mọi thông tin trên báo chí phải xuất phát từ cái tâm trong sáng của nhà báo cách mạng Việt Nam, tất cả vì lợi ích của quốc gia dân tộc, vì quyền lợi chính đáng của người dân và phải nhằm tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Năm là, tiếp tục tổ chức thật tốt Giải Báo chí quốc gia. Tuyên truyền sâu rộng hơn nữa, thu hút ngày càng nhiều những tác phẩm báo chí xuất sắc; có hình thức tôn vinh và động viên khen thưởng kịp thời, xứng đáng đối với những nhà báo trong sáng, kiên định, dũng cảm, sáng tạo, có những tác phẩm tốt cả về nội dung tư tưởng và hình thức thể hiện. Phát huy và nhân rộng ảnh hưởng và giá trị xã hội của Giải Báo chí quốc gia sau 7 năm thực hiện Quyết định của Thủ tướng, góp phần xây dựng nền báo chí cách mạng, khoa học, hiện đại và chuyên nghiệp.
—Kinh Vân Bộ—
1. Tóm lược sự việc thánh vật sông Tô Lịch
Tóm lược sự việc như sau, vào ngày 27/9/2001, đội thi công số 12 -Thuộc Công ty xây dựng VIC ,trong khi nạo vét sông Tô Lịch,thuộc địa phận làng An Phú – Phường Nghĩa Đô – Quận Cầu giấy – HÀ NỘI đã phát hiện được di vật cổ rất lạ và huyền bí. Đó là 7 cây gỗ được chôn đứng dưới lòng sông, tạo thành một đa giác đều, tại đó có các bộ hài cốt bị đóng đinh bả vai, táng giữa các cọc gỗ đó. Ngoài ra còn phát hiện được tấm gỗ Vàng tâm có hình Bát quái, một số đồ Gốm, xương Voi, Ngựa, dao, tiền đồng. Sau khi đã rút những cọc gỗ đó lên, lấy các bộ hài cốt đem lên Bát Bạt -Hà tây ( là nơi nghĩa trang chôn cất chung của TP.Hà nội ), thấy có rất nhiều hiện tượng kỳ lạ xẩy ra. Nào là các việc chuẩn bị tiến hành thi công bị rối tung lên, máy xúc KOMATSU tự nhiên lao xuống sông;. Nào là một số người đang làm việc tự nhiên ngã lăn ra đất, chân tay co rúm, cứng đờ, lưỡi thè ra ngoài và trở nên hoàn toàn mất tư thức trong nhiều giờ; Địa tầng của cả khu vực thi công tự nhiên biến đổi, không giống như khảo sát ban đầu; Thử đưa la bàn vào khu vực đó thấy kim la bàn quay tít. Một năm sau sự việc trên, có hàng loạt sự kiện ngẫu nhiên xẩy ra, gây kinh hoàng cho toàn đội xây dựng số 12, là đội đã trực tiếp thi công khu vực trên. Bản thân, gia đình, anh em của những người công nhân trực tiếp ngụp lặn vớt hài cốt, nhổ cọc đóng dưới lòng sông liên tục bị các tai nạn thảm khốc như chết, bệnh tật, tai nạn. Sự việc lên đến đỉnh cao khi có tới 43 người thợ bỏ không dám tiếp tục làm việc tại công trường nữa. Trong số đó nhiều người không nói rõ lý do, cũng không đòi hỏi vật chất mà đáng ra họ được hưởng.
Ngày 9/10/2001 những người thợ đã mời một thày theo đạo Tứ phủ đến giải thích, theo nhận định của Thày thì đây là một đạo Bùa Bát quái trận đồ được chôn yểm lâu đời để trấn yểm Long mạch của khu vực này. Sau đó các công nhân lại tiếp tục mời Thượng tọa Thích Viên Thành tới. Thượng tọa Thích Viên Thành đã cho 5 đệ tử lập đàn tràng, làm lễ Hàn lại Long mạch. Chỉ hơn 1 tháng sau, Thượng tọa Thích Viên Thành đã bị bệnh chết. Các nhà khoa học đã có những đánh giá sơ bộ, song cho đến nay vẫn chưa có kết luận nào khả dĩ có thể lý giải và khắc phục các sự việc trên.
2. Tác phẩm của Cao Biền
Theo Việt sử lược : Thành Đại La được xây dựng vào thế kỷ 7 có tên là Tống Bình. Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ), Vua Mục Tông nhà Đường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ. Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch, liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ. Thầy bói nói rằng, sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn, 50 năm sau, có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ. .
Tới đời vua Đường Y Tôn (841 -873 ), Cao Biền được cử sang đất Việt làm Tiết Độ sứ. Cao Biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng, vừa là một nhà Phù thủy, một Đạo sĩ, cũng là một nhà Phong thủy có tài. La Thành được Cao Biền sửa chữa, chỉnh đốn lại cho hợp Phong Thủy vào các năm : 866, 867, 868. Theo truyền thuyết, khi Cao Biền xây dựng lại thành Đại La, thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất. Cao Biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã, núi Tản Viên. Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.
Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô Lịch kéo dài đến Cổ Loa – Đông Anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định. Ta cũng cần phải nhớ rằng : Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà Nội. Mặt khác phía Tây và Tây Bắc của La Thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH, SƠN LA, LAI CHÂU…Theo định nghĩa của môn Phong Thủy, Long Mạch xuất phát từ những rặng núi cao. Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn. Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn. Ta cũng biết rằng thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống, các đỉnh núi cao là những antena tiếp thu sinh khí. Từ những sự việc trên, ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản Viên và các rặng núi phía Tây, Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại La theo dọc sông Tô Lịch (khí thường đi theo nước ), chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ), sau đó sang tới tận địa phận Cổ Loa -Đông Anh – HÀ NỘI và còn theo hướng Đông, Đông Bắc đi tiếp .
Chính vì có Long mạch này mà Cao Biền phải vô cùng bận tâm, khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm. Có rất nhiều tryền thuyết về Cao Biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này, và đây cũng chính là tác phẩm Cao Biền để lại trên sông Tô Lịch mà năm 2001 chúng ta phát hiện ra gây xôn xao dư luận.
Trước khi sang nước Nam, vua Đường cho vời Cao Biền vào và nhủ rằng : “Công học địa lý, tối vi linh diệu, trẫm văn An nam đa hữu thiên tử quý địa, Công đương dụng lực ngụ mục, hoặc hữu áp chi, triển bình sinh chi kinh luân, thuật thánh hiền chi quy củ, đoạt thần công nhi cải thiên mệnh, nhiên vi tiễu thảo trừ căn, chi đồ thứ cơ vô hậu lệ, tường suy phong thủy, kiến lãm sơn xuyên, nhất nhất diễn ca lập kiểu, trẫm đắc tiện văn giả..”
Dịch ra có nghĩa là:
“…Khanh học địa lý tối vi linh diệu, trẫm nghe An Nam có nhiều quý địa kết phát tới thiên tử, sản xuất ra nhiều nhân tài, anh kiệt nên luôn luôn nổi nên chống đối. Qua bên đó, khanh nên tường suy phong thủy, kiến lãm sơn xuyên và làm tờ tấu biểu kèm theo lời diễn giải các kiểu đất, gửi về cho Trẫm xem trước. Rồi ở bên đó khanh đem tài kinh luân, đoạt thần công, cải thiên mệnh, trấn áp các kiểu đất đó đi. Đó là cách nhổ cỏ thì nhổ tận gốc vậy, để tránh hậu họa sau này…”
Cao Biền vâng lệnh sang Việt nam, ông đã bỏ công xem xét. Và nhận thấy rằng có một mạch đất cực lớn thuộc loại Đại cán long xuất phát từ Côn Lôn sơn chạy qua, đến Việt nam chia làm ba chi lớn, trong đó có tới 27 ngôi đất kết phát tới thiên tử, còn lại là hàng nghìn ngôi đất lớn nhỏ kết phát các anh tài kiệt xuất. Ông đã xem xét. Ghi chép, diễn ca được 632 huyệt chính, 1517 huyệt bàng thuộc các tỉnh trên lãnh thổ Bắc Việt Nam:
Hà Đông: 81 chính, 246 bàng
Sơn Tây : 36 chính, 85 bàng
Vĩnh yên, Phúc yên, Phú thọ : 65 chính, 155 bàng
Hải Dương, Hưng Yên, Kiến An : 183 chính, 483 bàng
Gia Lâm, Bắc ninh, Đáp cầu, Bắc giang, Lạng sơn : 134 chính, 223 bàng
Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình : 133 chính, 325 bàng
(chi tiết các địa danh huyệt kết và diễn ca này xin để dịp khác vì dài dòng quá, tôi không đưa vào đây)
Sau khi thống kê, diễn giải tường tận, Cao Biền làm sớ tấu gửi về cho vua Đường Trung Tông. Bản tấu này có tên là “Cao Biền Tấu thư địa lý kiểu tự”. Bản tấu thư này được nhà Đường cất giữ rất bí mật, coi là bí thư.
Ở Việt nam, Cao Biền tiến hành trấn yểm các kiểu đất lớn. Thủ pháp của Cao Biền để trấn yểm là : Bắt đồng Nam, đồng Nữ, mổ bụng moi hết nội tạng, sau đó nhét cỏ bấc vào trong, cho ngồi giả phụ đồng. Sau đó đăng đàn làm phép, khu thần tróc quỷ, gọi các thần linh cai quản các ngôi đất lớn đến nhập đồng. Nếu thấy các tử thi cử động thì liền dùng gươm phép tẩm máu gà, máu chó mà trừ khử cho mất thiêng đi.
(Theo thuật Địa lý, một ngôi đất kết là do khí mạch của đất thăng lên, và các ngôi đất đó do các thần linh cai quản nuôi dưỡng, đất càng lớn thì thần linh càng mạnh. Cho nên khi trấn yểm, nếu muốn phá được ngôi đất ấy thì trước hết phải trừ được thần linh cai quản, sau đó mới yểm bùa, triệt phá. Do vậy nếu nói về Địa lý, ngoài việc nghiên cứu lý thuyết, muốn làm thầy, táng được huyệt còn phải có tài khu thần tróc quỷ, sai khiến quỷ thần mới có thể đặt được các ngôi đất lớn. Nếu không có phép ấy, ắt sẽ bị phản hại mà mang họa vào thân)
Cao Biền đã tiến hành trấn yểm các ngôi đất lớn nhưng hầu hết đều thất bại, chuyện đó sẽ nói tiếp trong kỳ sau.
Trở về với ngôi đất thành Thăng long, Cao Biền đã diễn ca ngôi đất như sau :
Thăng Long đệ nhất đại huyết mạch, Đế vương quý địa :
Giao châu hữu chi địa -(đất Giao Châu có một ngôi đất)
Thăng long thành tối hùng -(thăng long tối hùng mạnh)
Tam hồng dẫn hậu mạch -(ba con sông lớn dẫn hậu mạch, tiếp khí cho mạch là sông Thao, sông Lô, sông Đà).
Song ngư trĩ tiền phương -(hai con cá dẫn đường, chính là bãi Phúc Xá ngoài sông Hồng)
Tản lĩnh trấn Kiền vị -(núi Tản Linh trấn tại phương Kiền – tây bắc)
Đảo sơn đương Cấn cung -(núi tam Đảo giữ phương Cấn – Đông bắc)
Thiên phong hồi Bạch hổ -(nghìn ngọn núi quay về Bạch hổ)
Vạn thủy nhiễu Thanh long -(muôn dòng nước từ ba con sông Thao, Lô, Gâm đều tụ lại tại nga ba Việt trì, chảy về nhiễu Thanh Long)
Ngoại thế cực trường viễn -(thế bên ngoài rất rộng và xa, tất cả cá núi non trên suốt mạch sông Hồng từ Việt trì đến Ninh Bình đều chầu về)
Nội thế tối sung dong -(thế bên trong rất mạnh mẽ, đầy đặn)
Tô giang chiếu hậu hữu -(sông Tô lịch dẫn mạch từ phía sau, bên phải)
Nùng sơn cư chính cung -(núi Nùng đóng tại chính cung)
Chúng sơn giai củng hướng -(tất cả núi non đều hướng về rất đẹp)
Vạn thủy tận chiều tông -(là nơi tận cùng, hợp lưu của mọi dòng nước từ thượng nguồn dẫn khí mạch về)
Vị cư cửu trùng nội -(là nơi ở của vua chúa (cửu trùng), đất làm kinh đô)
Ức niên bảo tộ long -(có thể bền vững tới 10 vạn năm)
Cầu kỳ Hổ bất bức -(…….)
Mạc nhược trung chi đồng -(…….)
Mặc dù rất ngắn gọn, nhưng bài diễn ca trên đã nói nên cái thế đất của thành Thăng long cực lớn. Các nhà địa lý đời sau phân thế, gọi là Bát tự Phân lưu Hư hoa Hà nội (là nơi nước phân lưu như hình chữ bát). Trong bài diễn ca trên, ngoài các mô tả chung, cần chú ý tới mấy điểm đặc biệt :
Thứ nhất, là vị trí huyệt kết, thông thường định huyệt kết rất khó khăn, nhưng ở đây Cao Biền đã nói rõ “Nùng sơn cư chính cung”, đó chính là nơi huyệt kết chính cung. Núi Nùng bây giờ không còn nữa, mọi người thường nhầm với gò đất ở trong vườn hoa Bách thảo, theo các nhà khảo cổ đánh giá, có lẽ nó nằm tại vị trí gần khu Hoàng thành cổ, đền Bạch mã là khu vực chân núi.
Thứ hai, trong bài diễn ca trên, câu đầu tiên “Thăng long thành tối hùng”, rất nhiều người dịch là thành Thăng long, nhưng cái tên Thăng long là mãi đến đời Lý mới có. Theo ý kiến các nhà Địa lý, “Thăng long” ở đây có lẽ là nói về cái thế đất, khí mạch thăng lên. Mạch đang đi chìm, đến vị trí này nổi nên kết phát nên gọi là Thăng Long. Và đây cũng là một cơ sở của cái tên Thăng long sau này, chưa hẳn đã là theo truyền thuyết đức Lý thái tổ nhìn thấy rồng bay lên mà đặt tên. Quan điểm này còn nhiều tranh cãi.
Thứ ba, Trong bài diễn ca trên có hai câu cuối rất khó hiểu, nhiều người dịch, mỗi người một ý. Nhưng theo đa phần các nhà Địa lý đều thống nhất một ý như sau: (bỏ qua phần văn phạm dịch thuật). “Cầu kỳ Hổ bất bức, Mạc nhược trung chi đồng” có nghĩa là nếu không bức được Bạch Hổ thì bất quá cũng chỉ là nơi đồng không mà thôi.
Trong thuật Địa lý, nước dẫn khí mạch về để kết huyệt, Long Hổ hai bên lưu giữ khí mạch cho khỏi thoát, khỏi bị phong suy. Nhưng Thanh long là cát thần, ngôi trưởng, Bạch hổ là hung thần, ngôi thứ, cho nên Long phải dài hơn Hổ, phải nằm bên ngoài Hổ, phải khống chế được Hổ thì mới yên, ngược lại là loạn, thứ tất đoạt trưởng, sinh nhân hung ác, phản nghịch, tất sinh biến. Nếu khí mạch khi nhập huyệt mà lại nghịch hướng, hoặc quá lớn mà tản mát sẽ nuôi dưỡng cả Long và Hổ. Nếu nuôi dưỡng Long thì lành, nuôi dưỡng Hổ thì hung. Đối với thành Thăng Long, khi nhập huyệt, khí mạch được ba con sông Tô lịch, Kim ngưu, và Thiên phụ (cái tên sông này không biết có chính xác không, tôi chưa tra cứu được) dẫn về, trong đó sông Tô lịch nằm đằng sau, phía Phải hơi chệch đường, nuôi dưỡng cho Bạch hổ. Ba con sông này tập trung tại khu vực cuối đường Bưởi gần Hồ Tây, là chỗ mà người ta đã đào được trận đồ bát quái. Đây chính là nơi Thủy Khẩu.
Nhận thấy đây là một Quý địa, là nơi đế đô có thể bền vững tới 10 vạn năm, nếu trị được ngôi đất này có thể làm đất kinh đô được. Cho nên Cao Biền ra tay trấn yểm, không phải với mục đích là triệt phá thế đất Thăng long mà mục đích là khống chế khí mạch không cho nuôi dưỡng Bạch hổ nữa (Thực ra có muốn triệt phá cũng không thể đủ sức, đủ tài làm việc này, vì ngôi đất này cực lớn). Nơi trấn yểm được ông chọn là Thủy khẩu, nơi con sông Tô lịch dẫn khí mạch về bên Bạch Hổ. (xin chú ý đây là nói về nội Long và nội Hổ, vì thế đất Thăng Long có nhiều tầng Long Hổ). Với mục đích là chọn đất đặt Kinh Đô, nhằm đô hộ lâu dài đất Giao Châu.
Khi Cao Biền trấn yểm, có lẽ do linh khí núi sông linh thiêng, do anh linh bao đời của dòng giống Lạc Hồng bất khuất đã hiển linh xuất thánh, không để cho Cao Biền thực hiện ý định đóng đô lâu dài nên đã ra sức cản phá, kết hợp với nhân dân lúc bấy giờ tìm mọi cách ngăn cản cho nên Cao Biền đã thất bại. Ông đã không xây dựng được nơi chính huyệt, Cao Biền đành chuyển ra bên cạnh đóng đô nơi thành Long Biên, là tòa thành đã có từ trước. Cũng chính vì vậy mà sự nghiệp của Cao Biền ở nước Nam đã không kéo dài được. Và thành Long Biên sau này cũng chỉ là một thành nhỏ, trước đây không một đời vua nào đóng đô ở đây được lâu bền cả, như Mai Thúc Loan, Lý Bí … cũng đều đóng đô ở Long biên, nhưng chỉ được thời gian rất ngắn ngủi.
Các vị thần được phong là Thăng long Tứ Trấn đã có công giữ thành, giữ đất, đến nay vẫn được nhân dân Nam Việt biết ơn, thờ phụng. Công đức của các ngài gắn liền với đất Thăng Long – Hà Nội. Và các ngài đến nay vẫn giúp cho cháu con nước Việt gìn giữ một Kinh thành với thế đất nổi danh quý địa Bát tự phân lưu.
Chi tiết các đợt trấn yểm của Cao Biền sẽ được Trần Ái Quốc chuyển tải tới độc giả vào kỳ sau với tên: “Trấn yểm long mạch nước Nam – âm mưu thâm độc của phong kiến phương Bắc”.
Trần Ái Quốc
This gallery contains 1 photo.
Sơn Thảo Đã thành thông lệ, cứ đến dịp tháng 3 tháng 9, Bộ ngoại giao Hoa Kỳ lại cho mình cái quyền công bố báo cáo thường niên về tình hình nhân quyền và tự do tôn … Tiếp tục đọc
Ký ức của những năm cuối thập niên 70 của thế kỷ 20 mãi mãi không quên trong lòng nhân dân hai nước Việt Nam – Campuchia. Đó là mối quan hệ thủy chung, son sắt, thắm tình anh em của hai dân tộc trong những thời khắc lịch sử khó khăn của cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm, đặc biệt là cuộc đấu tranh chống chế độ diệt chủng Pol Pot-leng Sary-Khieu Samphan. Chiến tranh đã lùi xa 34 năm về trước, nỗi đau của cuộc chiến chống chế độ diệt chủng đã không còn trong lòng người dân Campuchia nữa nhưng tình cảm gắn bó keo sơn vẫn còn đọng lại, được lich sử ghi nhận và đánh giá rất cao.
Quan hệ đoàn kết, hữu nghị Việt Nam – Campuchia được nuôi dưỡng và phát triển trong gian khổ, khó khăn của mưa bom bão đạn quân thù. Nhân dân Việt Nam giúp các lực lượng cách mạng của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia đứng lên lật đổ chế độ Pol Pot giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi những ngày tháng đen tối nhất trong lịch sử. Trong mười năm làm nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia (1979-1989), quan hệ đoàn kết, hữu nghị của hai dân tộc được vun đắp với tinh thần vô tư, trong sáng, không quản ngại khó khăn, hết lòng giúp đỡ nhân dân nước bạn khắc phuc hậu quả chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Nhiều lượt chuyên gia và quân tình nguyện của ta sang giúp nước bạn và để lại trong lòng nhân dân Campuchia một tình cảm, một dấu ấn vô cùng to lớn trong quan hệ đoàn kết Việt Nam – Campuchia. Ngày 7/1/1989, Chủ tịch Heng Samrin trong buổi gặp gỡ chia tay đoàn chuyên gia Việt Nam về nước đã nói: Tổ quốc và nhân dân Campuchia đã khắc sâu vào trái tim mình, lịch sử đất nước Campuchia sẽ mãi mãi khắc bằng chữ vàng công ơn to lớn của các đồng chí chuyên gia, cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam đã hoàn thành thắng lợi nghĩa vụ quốc tế cao cả trên đất nước Campuchia”. Kể từ đó cho tới nay, quan hệ đoàn kết, hữu nghị thủy chung trong sáng giữa hai dân tộc ngày càng vững mạnh, là cơ sở lịch sử quan trọng cho những giai đoạn hợp tác về sau.
Năm 2013, đất nước Campuchia bước vào cuộc bầu cử Quốc hội lần thứ năm, Đảng nhân dân Campuchia (CPP) đã giành được chiến thắng với 68 ghế. Thắng lợi trong cuộc bầu cử của nhân dân Campuchia đã khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn, hiệu quả, cũng như sự tin tưởng của nhân dân Campuchia đối với Đảng nhân dân Campuchia.
Sau khi có kết quả sơ bộ cuộc bầu cử, ông Sam Rainsy, thủ lĩch đảng Cứu nguy dân tộc CNRP đã có những lời phát ngôn lạc lõng, vô căn cứ mang tính khiêu khích, gây tổn hại đến quan hệ hữu nghị Việt Nam – Campuchia. Cụ thể, vào ngày 6/8 trong bài phỏng vấn riêng của đài BBC với ông Sam Rainsy từ Phnom Penh, ông Sam Rainsy đã nói: “Hà Nội từng lấn chiếm đất đai Campuchia. Hà Nội cũng chiếm các đảo của Trung Quốc”. Những lời tuyên bố đó đã gây tổn hại nghiêm trọng đén quan hệ Việt Nam – Campuchia được xây dựng trong nhiều năm qua. Nhìn lại chặng đường phát triển của mối quan hệ Việt Nam – Campuchia, lịch sử đã chứng minh mối quan hệ hữu nghị trong những năm tháng khó khăn của cả hai dân tộc trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc là bằng chứng cụ thể nhất để phản bác lại những lời lẽ vô căn cứ, bịa đặt của ông Sam Rainsy.
Theo nguồn tin của BBC, vào ngày 29/7, trả lời phỏng vấn trước truyền hình Phượng Hoàng (Hongkong), ông Sam Rainsy nói về lập trường của CNRP đó là: “ Tất cả mọi hòn đảo do Trung Quốc bảo vệ là lãnh thổ của Trung Quốc. Chúng tôi lên án bất cứ hành động xâm lược nào. Những hòn đảo ấy là của Trung Quốc và chỉ thuộc về Trung Quốc mà thôi”. Nói về biển Đông, Việt Nam có đầy đủ bằng chứng, cơ sở pháp lý để khẳng định rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là chủ quyền thiêng liêng không thể tách rời của Việt Nam. Trên phương diện lịch sử, địa lý Việt Nam đã minh chứng cho điều đó. Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Hoàng Sa và Trường Sa là hai quần đảo nằm trong chủ quyền thiêng liêng của Vệt Nam. Những lời lẽ vô căn cứ của ông Sam Rainsy đã gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín cũng như mối quan hệ gắn bó lâu nay giữa Việt Nam và Campuchia, đe dọa đến an ninh khu vực cũng như trên thế giới. Việt Nam luôn chủ trương tôn trọng giải quyết các bất đồng, tranh chấp ở Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về cách Ứng xử của các bên ở Biển Đông(DOC).
Quan hệ hữu nghị đoàn kết Việt Nam – Campuchia đươc xây dựng không chỉ trong giai đoạn đấu tranh chống chế độ diệt chủng mà còn đươc xây dựng, phát triển trong thời kì hòa bình. Điều đó đươc thể hiện rõ nét trong quan hệ hợp tác toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, thương mại, văn hóa, xã hội, khoa học kĩ thuật…,mang lại lợi ích to lớn cho cả hai dân tộc. “ Láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài giữa hai nước” là phương châm để xây dựng và phát huy bền chặt tình hữu nghị, quan hệ truyền thống giữa hai nước. Vấn đề biên giới được hai nước giải quyết rõ ràng thông qua công tác phân giới cắm mốc Việt Nam – Campuchia, góp phần vững chắc trong việc xây dưng đường biên giới hòa bình ổn định, cùng phát triển.
Dư luận trong và ngoài nước rất bức xúc trước nhừng lời lẽ khiêu khích, vô căn cứ, mang ý đồ xấu về chính trị của ông Sam Rainsy. Trong hoàn cảnh hòa bình thế giới và khu vực đang được giữ gìn, coi trọng thì những lời nói của ông Sam Rainsy đã đe dọa đến tình hình hòa bình, an ninh khu vực và mối quan hệ Việt Nam – Campuchia. Lời lẽ vô căn cứ của ông Sam Rainsy đã đi ngược lại với lợi ích của nhân dân hai nước, mà lẽ ra những người đai diện đứng đầu một đảng như ông không nên hành xử như vậy.
Nguồn công dân Việt Nam